Trường hợp đầu tiên được chữa khỏi AIDS

Timothy Ray Brown, 45 tuổi, thường được gọi là bệnh nhân Berlin bởi vì ông từng sống ở thành phố này, đã được khẳng định là người đầu tiên trong lịch sử được chữa khỏi bệnh AIDS hoàn toàn vào giữa tháng 5 vừa qua sau hơn 4 năm thử thách.


Brown hiện sống ở San Francisco Bay Area (Mỹ) tuyên bố với báo giới: “Tôi đã có HIV nhưng giờ không còn nữa”.

Mặc dù các chuyên gia rất lạc quan về khả năng chữa bệnh trong câu chuyện của Brown nhưng CBS cũng cho biết một bác sĩ không liên quan với nghiên cứu này gọi kết quả này là “chữa bệnh chứng năng” và khả năng mở rộng phương pháp điều trị này hiện vẫn còn gặp nhiều trở ngại.

Không bỏ cuộc dù mắc 2 bệnh nan y

Brown công khai mình là người đồng tính năm 18 tuổi và cho biết xét nghiệm đầu tiên phát hiện anh dương tính với HIV là năm 1995. Kể từ đó, anh uống đều đặn thuốc kháng vi-rút mỗi ngày cho đến khi phát hiện mình bị thêm ung thư máu trắng.

Năm 2006, anh gặp TS Gero Huetter, một chuyên gia về ung thư máu tại ĐH Y Berlin. TS đã thực hiện 1 cách điều trị hoàn toàn mới, đó là diệt sạch toàn bộ hệ thống miễn dịch của Timothy bằng tia xạ và rồi cấy tế bào tủy xương từ người hiến được cho là có khả năng miễn dịch với vi rút HIV. Việc ghép tủy đã được thực hiện năm 2007 do nhóm các bác sĩ ở Bệnh viện Đa khoa San Francisco và TT Y tế San Francisco tại ĐH California (UCSF) thực hiện.

TS Paul Volberding, đang làm việc tại UCSF, đã nghiên cứu HOV từ khi thế giới phát hiện ra căn bệnh này, đánh giá: “Câu chuyện của bệnh nhân Berlin là một câu chuyện thú vị, nó không mang tính cá nhân mà mang tính tổng quát”.

  Trên tạp chí Huyết học, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng các thử nghiệm “mạnh đến mức chúng tôi tin rằng chữa khỏi AIDS là hoàn toàn có thể”   Tuy nhiên, có một điều các chuyên gia vẫn lo ngại vi-rút HIV có thể vẫn ẩn nấp ở đâu đó trong cơ thể Brown. Ngoài ra, cũng có những nguy cơ, khó khăn khi thực hiện ghép tủy và tìm nguồn hiến phù hợp. ghép tế bào gốc mang tính chất xâm lược nhiều hơn là hiến máu và tìm được một nguồn hiến phù hợp giữa người hiến và người được tặng là không hề dễ.

Mặc dù vậy, nó vẫn gợi mở cho các nhà khoa học cách thức điều khiển các thụ thể trên tế bào bạch cầu để có thể giả hệ miễn dịch tự nhiên và liệu pháp gien có lẽ sẽ ít xâm lấn hơn là ghép tế bào gốc hay thực hiện biến đổi di truyền tế bào gốc trong phòng thí nghiệm.

Trong khi đó, các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng những bệnh nhân khỏe mạnh dùng thuốc kháng vi-rút sẽ giảm nguy cơ nhiễm HIV lên đến 73%. Điều này đặc biệt được xem xét tại châu Phi, nơi có tỉ lệ người dương tính với HIV rất cao.

Đối với khoảng 33 triệu người có HIV trên toàn thế giới, câu chuyện củag Brown đã gợi mở ra những hy vọng mới.

10-15% có hệ miễn dịch kháng được vi-rút HIV

 
Các thử nghiệm cho thấy có những người miễn dịch với vi-rút HIV

  Trên thực tế, kể từ khi phát hiện bệnh cách đây 30 năm, các nhà khoa học đã nghiên cứu miễn dịch HIV ở người và nhanh chóng nhận thấy rằng có một số người (chiếm tỷ lệ nhỏ) có sức đề kháng tự nhiên với bệnh này và do gien CCR5 quy định. Đó là gen mã hóa một loại protein hoạt động như các “thụ cảm” bên ngoài tế bào bạch cầu, bản chất là một “cái khóa”.

Nếu thụ cảm này không hiện diện, dường như vi-rút HIV không thể xâm nhập vào được tế bào máu. Điều này có nghĩa là nó không thể bắt đầu sự lây nhiễm mà cuối cùng dẫn đến AIDS.

Các nhà khoa học tin rằng những người đã có bản sao của gien CCR5 sẽ có thể kháng lại vi-rút HIV nhưng không phải miễn dịch 100%. Vẫn có khoảng 10-15% trường hợp này là người bắc Âu. Những người thừa hưởng 2 bản sao của cái gọi là “gien miễn dịch” từ cả bố và mẹ dường như có khả năng kháng HIV mạnh mẽ. Những trường hợp này ước tính khoảng 1% những người đến từ bắc Âu, trong đó người Thụy Điển là những người có khả năng nhất.

Các nhà khoa học cho biết gien này thực sự là một đột biến và các nghiên cứu ADN cho thấy nó xuất hiện từ thời Trung Cổ. Một số chuyên gia cho rằng nó xuất hiện do phản ứng với dịch hạch, trong khi số khác lại tin là do bệnh sởi tạo ra.

Trong trường hợp của Brown, người hiến tặng tủy có cả 2 bản sao của gien CCR5.

Thu Phương

Tổng hợp từ Reuters, AP, DM

Hội thảo chuyên đề; cập nhật vai trò và ứng dụng AMH trong thực hành lâm sàng sản phụ khoa

Xét nghiệm AMH (Anti-Mullerian Hormone)được xem là một trong những xét nghiệm đặc biệt,đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị hiếm muộn, 

Đề tài cấp Bộ Y Tế quản lý

Đề tài cấp Bộ Y Tế quản lý

Đề tài nghiên cứu khoa học hợp tác nước ngoài

Đề tài nghiên cứu khoa học hợp tác nước ngoài: