HỘI THẢO KHOA HỌC: CẬP NHẬT DỰ PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ THIẾU SẮT/THIẾU MÁU DO THIẾU SẮT

Ngày 3 tháng 11 năm 2016, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, Bệnh viện Phụ sản Trung ương phối hợp cùng công ty Ever Neuro tổ chức Hội thảo khoa học chuyên đề “Cập nhật dự phòng và điều trị thiếu sắt/thiếu máu do thiếu sắt”

Tham dự hội thảo có hơn 400 chuyên gia, giáo sư, bác sĩ uy tín công tác tại các bệnh viện lớn tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.

PGS.TS Vũ Bá Quyết – Giám đốc bệnh viện Phụ sản TW phát biểu khai mạc

PGS. TS Vũ BáQuyết- Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết “Thiếu máu ở phụ nữ mang thai có thể gây nhiều hậu quả nặng nề cho cả mẹ và con. Mẹ bị thiếu máu dễ bị sảy thai, nhau bong non, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, chất lượng sinh nở và cho con bú thấp. Trẻ sinh ra bởi những người mẹ thiếu máu cũng dễ bị thiếu máu, nhẹ cân, sinh non tháng, suy thai, tăng khả năng bị các bệnh sơ sinh hơn so với bình thường. Trẻ sơ sinh thiếu máu do thiếu sắt có thể gây ra ảnh hưởng lâu dài tới phát triển trí não và hậu quả của nó có thể tiếp tục làm suy giảm khả năng học tập của trẻ do khiếm khuyết trong hình thành myelin do thiếu sắt. Con của những bà mẹ thiếu máu giai đoạn sớm thai kỳ có nguy cơ bệnh tim mạch cao hơn trẻ khác khi đến tuổi trưởng thành. Có đến 36,8% phụ nữ mang thai tại Việt Nam thiếu máu và 75% thiếu máu ở phụ nữ mang thai là do thiếu sắt (Viện dinh dưỡng Quốc Gia-2000). Bổ sung Sắt đầy đủ cho phụ nữ mang thai tuy đơn giản nhưng mang lại ý nghĩa rát lớn cho xã hội và mỗi gia đình, cho cuộc sống của Mẹ và Bé” 

PGS.TS Vũ Bá Quyết báo cáo nghiên cứu Bố sung sắt trong thai kỳ- giải pháp tối ưu trong phòng ngừa và điều trị thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai.

Tuy nhiên uống viên sắt bổ sung ở phụ nữ có thai không phải dễ dàng. Một số phụ nữ tự ý ngừng uống viên sắt vì các tác dụng phụ như táo bón, buồn nôn, tiêu chảy...là những triệu chứng phụ nữ có thai rất ngại. Hơn nữa, phụ nữ có thai uống bổ sung sắt thời gian rất dài, nên lựa chọn sản phẩm không gây lắng đọng sắt ở tổ chức khi hấp thu thừa. Nên lựa chọn những thuốc sắt III dạng phức hợp, hấp thu chủ động chọn lọc theo nhu cầu cơ thể, hạn chế được các tác dụng phụ của sắt như: Maltofer (Hydroxide  Polymaltose)  hay sắt  succinyl protein. 

TS.Peter Geissercập nhật thông tin dự phòng và điều trị thiếu máu do thiếu sắt, cơ chế chuyển hóa sắt trong cơ thể.

Cũng trong hội thảo, Ts. Peter Geisser, Nhà phát minh Thụy sĩ, sáng chế ra sắt III: Venofer(Iron sucrose); Maltofer(Hydroxide Polymaltose) ; Chủ tịch Hội Đồng Khoa Học Câu Lạc Bộ Sắt Châu Âu 2008 cũng cho biết:  tùy theo cấu trúc hóa học, các chế phẩm sắt đường uống khác nhau có tác động khác nhau tới cơ thể.  Muối sắt II hoạt tính mạnh, tan tốt nên có sinh khả dụng. nhưng vì hoạt tính mạnh quá sẽ xảy ra hấp thu mạnh vào trong máu gây bão hòa transferin và sinh ra nhiều sắt không được gắn transferin sẽ gắn kết bất thường với albumin trong máu, gây lắng đọng sắt ở tim, gan và hệ nội tiết. Hơn nữa sắt giải phóng nhiều ở lòng ruột gây tổn thương niêm mạc ruột. Sắt III bình thường thì không độc nhưng không tan nên không có sinh khả dụng. TS. Peter Geisser đã nghiên cứu và phát mình ra phức hợp sắt III được bao bọc bởi màng polymaltose ( Maltofer) có khả năng tan trong các môi trường PH khác nhau, thành sắt III có sinh khả dụng, chỉ hấp thu chủ động vào cơ thể không gây bão hòa transferin, không gây lắng đọng sắt các cơ quan khi dùng lâu dài, ít gây tác dụng phụ trên đường tiêu hóa. Ông còn nhấn mạnh các sản phầm Polymaltose khác nhau sẽ không có sinh khả dụng giống nhau do trọng lượng phân tử khác nhau. Maltofer là  phức hợp sắt có trọng lượng phân tử nhỏ và ổn định, nên tính hòa tan ở các PH khác nhau ( từ dạ dày đến ruột) trong khi một số Polymaltose có trọng lượng phân tử lớn hơn nhiều khó hòa tan, vì vậy tác dụng điều trị không giống như Maltofer.

Hơn nữa, sự tương tác với các thành phần trong thực phẩm và các loại thuốc khác không giống nhau giữa các muối sắt, điều đó giải thích tại sao Maltofer có thể và nên uống khi ăn hoặc sau khi ăn. Các nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh nhìn chung khi dùng Maltofer, lượng hemoglobin tăng lên sau 3 tháng điều trị tương đương với các loại muối sắt khác, nhưng với Maltofer an toàn hơn, có ít tác dụng phụ hơn nhiều so với các sắt khác.

Trong báo cáo tại hội nghị, PGS.TS Đào Minh Tuấn - Phó viện trưởng viện nghiên cứu sức khỏe trẻ em, trưởng khoa hô hấp bệnh viện Nhi Trung ương cho biết: Với trẻ sinh non thì nên bổ sung sắt hàng ngày từ 2 tháng tuổi đến 24 tháng tuổi. Khi bổ sung nên chọn loại dễ sử dụng như giọt hay siro….Sử dụng sắt lâu dài nên chú ý về an toàn của sản phẩm chứa sắt, nên sử dụng các thuốc sắt III hấp thu chủ động chọn lọc ít gây tác dụng phụ, nhất là trên đường tiêu hóa và không gây lắng đọng sắt làm tổn thương các cơ quan trong cơ thể.

                             Bài:  Ths.Ds Nguyễn Huy Tuấn - Bệnh viện Phụ Sản TW