Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới - Nguyễn Viết Tiến

Giới thiệu Thứ trưởng Bộ Y tế - Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương

Ngày, tháng, năm sinh: 02/08/1959

Quê quán: Cẩm Thạch, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.

Chỗ ở hiện nay: Khu đô thị Nam Thăng Long, Tây Hồ, Hà Nội.

Chức vụ và đơn vị công tác: Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Trưởng Bộ môn Phụ sản Trường Đại học Y Hà Nội.

Học hàm học vị: phó giáo sư, tiến sĩ.

Quá trình công tác:

-         Từ năm 1997 – 1998: Phó Trưởng khoa Khám – Viện Bảo vệ Bà mẹ và trẻ sơ sinh.

-         Từ năm 1998 – 1999: Phó Trưởng khoa Sản 1 Viện Bảo vệ Bà mẹ và trẻ sơ sinh.

-         Năm 2000: Phó Bí thư chi Bộ bộ môn Phụ sản

-         Năm 2001: Phó trưởng Bộ môn Phụ sản Trường Đại học Y Hà Nội

-         Năm 2003: Phó Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương

-         Từ năm 2005 – 2009: Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, chủ tịch Hội Sản phụ khoa và sinh đẻ có kế hoạch Việt Nam. Thành viên Hội hỗ trợ sinh sản thế giới, thành viên Hội Y học sinh sản Mỹ.

Các hình thức khen thưởng đã đạt được:

-         Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới

-         Nhà giáo Ưu tú 2006

-         Huân chương Lao động Hạng ba năm 2007

-         Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2006

-         Bằng lao động sáng tạo năm 2002, 2005, 2008

-         Chiến sĩ thi đua cơ sở liên tục trong nhiều năm

Tóm tắt thành tích đã đạt được:

Là người có trình độ chuyên môn cao, tích cực nghiên cứu khoa học và ứng dụng những nghiên cứu đó vào tình hình cụ thể tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương.

Xây dựng Trung tâm hỗ trợ sinh sản trở thành một trong những trung tâm hàng đầu trong cả nước về điều trị vô sinh. Triển khai có hiệu quả các kỹ thuật như: Nối vòi trứng, kỹ thuật ICSI, phương pháp động phôi… đã có hàng ngàn cháu bé khỏe mạnh ra đời bằng kỹ thuật này.

Kỹ thuật nội soi được triển khai và đưa vào áp dụng rộng rãi trong điều trị phụ khoa và vô sinh, giảm chi phí rất lớn và rút ngắn chi phí ngày điều trị. Đối với kỹ thuật mổ nội soi trong điều trị phụ khoa, đã mở các lớp đào tạo tại bệnh viện cho học sinh các tỉnh về học. Mặt khác, vẫn đào tạo ngay tại các bệnh viện tỉnh giúp cho học sinh giảm chi phí đi lại, đỡ tốn kém, thuận tiện cho công tác đào tạo đạt kết quả cao.

Trong 5 năm (2003 – 2008) đã có 22 công trình nghiên cứu khoa học, có 10/22 công trình thuộc lĩnh vực điều trị vô sinh, 02 công trình cấp Nhà nước và 01 đề tài nhánh quốc tế. Những công trình này đã được in trên các tạp chí chuyên ngành và các ấn phẩm của nhà xuất bản Y học.